Kho H66, Cảng Hà Nội
Thứ 2 - Chủ Nhật
Xuất khẩu dệt may trong 10 tháng năm 2022 đạt gần 38 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ 2021. Với kết quả này, mục tiêu xuất khẩu 42 tỷ USD cho cả năm 2022, tăng 3,8% so với năm 2021 là khả thi.
Năm 2022, ngành dệt may chịu nhiều áp lực lớn. Theo Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam (Vitas) Vũ Đức Giang, xuất khẩu dệt may tăng trưởng tương đối tốt trong nửa đầu năm 2022, tuy nhiên, bước vào quý III/2022, thị trường bắt đầu có dấu hiệu sụt giảm đơn hàng rõ rệt. Nguyên nhân là do các thị trường lớn là Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu (EU)… có lạm phát cao làm giảm chi tiêu của người dân, trong đó may mặc là mặt hàng được cắt giảm chi tiêu nhiều. Ngoài ra, các thị trường là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc)… vẫn đang áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt chống Covid-19, ảnh hưởng không nhỏ đến chuỗi cung ứng nguyên, phụ liệu và tiêu thụ sản phẩm dệt may của Việt Nam.
Một báo cáo phân tích về ngành dệt may được VNDirect Research công bố gần đây cũng nhận xét rằng, nhu cầu của các mặt hàng quần áo cao cấp như áo sơ mi và áo phông làm từ sợi tái chế và sợi bông (giá cao hơn) sẽ chậm lại trong nửa cuối năm 2022. Ban lãnh đạo các công ty may mặc cho biết, khách hàng Hoa Kỳ đã rút ngắn thời gian đặt hàng trước từ 6 tháng xuống còn 3 tháng do lượng hàng tồn kho cao và áp lực lạm phát. Các đơn đặt hàng trong quý IV/2022 chậm lại do lo ngại về lạm phát.
Đặc biệt, tình trạng yêu cầu truy xuất nguồn gốc bông, vải, sợi hay xanh hóa dệt may từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng là những thách thức mà doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang phải đối diện. Theo ông Võ Mạnh Hùng, đại diện Hiệp hội Bông Mỹ (CCI) tại Việt Nam, chỉ trong vòng 6 tháng, có hơn 3 nghìn lô hàng dệt may của các nước nhập khẩu vào Hoa Kỳ đã bị cơ quan Hải quan Hoa Kỳ giữ lại để kiểm tra nguồn gốc xuất xứ. Theo đó, khi hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ, hải quan nước này có quyền giữ hàng trong 5 ngày để kiểm tra và trong 30 ngày doanh nghiệp phải cung cấp đủ các chứng từ liên quan đến chuỗi cung ứng để chứng minh nguồn gốc lô hàng không có xuất xứ từ bông Tân Cương (Trung Quốc).
Tuy nhiên, xuất khẩu dệt may của Việt Nam trong 10 tháng năm 2022 vẫn rất khả quan, cho thấy nỗ lực rất lớn của ngành dệt may Việt Nam, nhất là trong bối cảnh thị trường tiêu dùng thế giới chững mạnh trong quý cuối cùng của năm 2022. Ngành dệt may Việt Nam đạt 37,9 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu trong 10 tháng năm 2022, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, thị trường xuất khẩu trọng tâm Hoa Kỳ với 13,9 tỷ USD, các nước trong khối Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương 4,733 tỷ USD, các nước EU 3,63 tỷ USD, Hàn Quốc 2,525 tỷ USD, Trung Quốc 925 triệu USD. Quần áo may mặc các loại vẫn là mặt hàng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành, tới 29,1 tỷ USD. Ngoài quần áo, ngành dệt may Việt Nam cũng xuất khẩu vải với 2,13 tỷ USD, xơ sợi 4,083 tỷ USD, phụ liệu may 1,165 tỷ USD, vải địa 747 triệu USD.
Ngành dệt may đã xuất khẩu vào 66 nước, vùng lãnh thổ. Đây là sự bứt phá của ngành dệt may Việt Nam trong phát triển thị trường. Cùng với đó, số mặt hàng duy trì xuất khẩu khoảng 47 – 50 mặt hàng khác nhau vào thị trường toàn cầu và chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu là quần áo may mặc các loại.
Năm 2022, ngành dệt may Việt Nam đã có 10 thương hiệu đạt Thương hiệu quốc gia Việt Nam, bao gồm: Sản phẩm thời trang Viettien (Tổng công ty May Việt Tiến), thương hiệu Merriman (Tổng công ty cổ phần Dệt may Hòa Thọ), thương hiệu Mattana & Novelty (Tổng công ty May Nhà Bè), trang phục An Phước (Công ty TNHH May thêu giày An Phước), May10 Series, May10 Suits & Eternity GrusZ (Tổng công ty May 10), thời trang Thái Tuấn (Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Tuấn), khăn bông Mollis (Tổng công ty cổ phần Phong Phú). Mục tiêu từ nay tới năm 2025, Việt Nam sẽ có 20 thương hiệu thời trang không chỉ trong nước mà còn vươn ra tầm thế giới.
Trong thời gian tới, ngành dệt may của Việt Nam phải đối diện với một số khó khăn, thách thức như: Đơn hàng từ cuối năm nay tới quý I/2023 đang chịu áp lực giảm, tính chung giảm 25 – 27% do sức mua của toàn cầu giảm. Những đơn vị làm gia công chịu áp lực lớn hơn các doanh nghiệp làm FOB (tự chủ nguyên liệu) do FOB chủ động được thị trường, đầu vào, lãi suất ngân hàng tăng… Hơn nữa, với những đơn vị làm mặt hàng rẻ, giá thấp trước đây thì hầu như từ cuối quý II đến nay đều giảm đơn hàng ở mức cao. Sản phẩm cao cấp mặc dù không đảm bảo 100% như trước đây nhưng vẫn trụ vững được. Bên cạnh đó là những khó khăn về lao động khi số lao động trong ngành nghỉ việc với tỷ trọng 5 – 7%.
Trước áp lực giảm phát, lạm phát, đồng tiền của các nước mất giá… ngành dệt may đã tìm ra đối sách đa dạng hóa thị trường. Doanh nghiệp đã chuyển đổi từ gia công sang phát triển mẫu, quản trị số, thúc đẩy giải pháp chuỗi cung ứng tự chủ… Bên cạnh đó, không chỉ với thị trường trong nước, kinh doanh qua môi trường internet cũng được các nhà nhập khẩu áp dụng triệt để. Những nhãn hàng lớn hầu hết vẫn đưa ra ý tưởng, trao đổi với doanh nghiệp Việt Nam qua môi trường trực tuyến để doanh nghiệp thiết kế, chào giá, thậm chí có nhãn hàng còn chưa đến Việt Nam. Bên cạnh đó, sự chuyển dịch đầu tư từ các nước vào Việt Nam có bứt phá. Đây là cơ hội cho doanh nghiệp đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá mặt hàng… Ngoài ra, Việt Nam đã và đang thúc đẩy, chủ động được nguyên phụ liệu trong nước và càng ngày càng tăng. Hiện tỷ lệ nội địa hoá của ngành là 49%, mục tiêu đạt 50 – 51% trong giai đoạn 2023 – 2025. Động lực để các nhãn hàng tìm đến thị trường Việt Nam là các chương trình phát triển bền vững, xanh hóa, quản trị số, kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam. Đặc biệt là sự khuyến khích doanh nghiệp dệt may phát triển bán hàng theo thiết kế, sáng tạo (ODM), giảm thiểu làm hàng gia công cho đối tác. Đơn cử như việc hiện nay xuất khẩu ngành dệt may không còn chỉ phụ thuộc vào 5 thị trường truyền thống như trước đây (Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) mà bắt đầu là chuyển dịch sang Nga và một số nước khác.
Đặc biệt, đối với thị trường EU, nếu như trước đây dệt may Việt Nam chỉ tập trung vào một số nước lớn như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, thì nay đã xuất khẩu vào 26/ 27 quốc gia ở EU. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động chuyển dịch tầm nhìn, mô hình hoạt động sang các nước như châu Phi, Mexico… Doanh nghiệp ngành cũng thích ứng rất nhanh khi chuyển dịch đầu tư vào công nghệ và tự động hóa và thích ứng được khi cơ cấu mặt hàng có thay đổi. Bên cạnh đó, khi đối diện với tình trạng đơn hàng giảm, doanh nghiệp đã sắp xếp lại giờ làm, không tổ chức tăng ca, làm thêm giờ mà chỉ làm theo giờ hành chính hoặc giảm số ngày làm việc trong tuần để đảm bảo việc ổn định cho người lao động.
Ông Vũ Đức Giang khẳng định, mặc dù còn nhiều thách thức và khó khăn trong giai đoạn cuối năm, nhưng năm 2022 ngành dệt may Việt Nam vẫn dự kiến về đích với 42 tỷ USD. Trong thời gian tới, doanh nghiệp ngành dệt may vẫn thích ứng được, trong bối cảnh quý IV sẽ khó khăn, thậm chí có thể kéo dài đến quý I/2023.
Dự báo về triển vọng của ngành dệt may, theo VNDirect Research, ngành dệt may sẽ khởi sắc hơn trong quý I/2023 do các sản phẩm dệt may sẽ được giảm thuế xuất khẩu vào thị trường EU vào năm 2023 nhờ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA). Theo FTA này, các loại hàng may mặc bao gồm B3, B5, B7 sẽ được giảm 2 – 4% thuế xuất khẩu vào năm 2023. Ngoài ra, Ủy ban châu Âu dự báo lạm phát trong khu vực đồng tiền chung châu Âu sẽ đạt 8,3% vào năm 2022, trước khi giảm xuống 4,3% vào năm 2023. Lạm phát thấp hơn sẽ kích thích nhu cầu mua sắm các mặt hàng thời trang trong năm 2023. Do đó, một số doanh nghiệp dệt may xuất khẩu com-lê, áo sơ mi, quần và váy sang châu Âu như May Sông Hồng, May 10, Việt Tiến… sẽ được hưởng lợi từ EVFTA.
Giai đoạn 2023 – 2025, dự báo kinh tế thế giới vẫn còn có nhiều bất ổn, ngành dệt may cần có hướng đi mới, giảm phụ thuộc vào thị trường quốc tế, tự chủ nguồn cung nguyên phụ liệu, chuyển dần trọng tâm sang khai thác thị trường nội địa. Với quy mô dân số gần 100 triệu người, Việt Nam là thị trường tiêu thụ dệt may tiềm năng cho các doanh nghiệp. Ngành dệt may hướng mục tiêu xuất khẩu năm 2023 khoảng 45 – 47 tỷ USD (nếu có thông tin giảm hàng tồn của các nước nhập khẩu lớn, ngành sẽ có điều chỉnh). Cơ sở đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 47 tỷ USD năm 2023 là do Việt Nam có 15 FTA có hiệu lực, là nền tảng tạo giải pháp đa dạng hoá thị trường. Đặc biệt, năm 2023, một số FTA sẽ về đích mức thuế suất bằng 0%, đây chính là động lực thúc đẩy chuyển dịch đầu tư từ bên ngoài vào Việt Nam.
Để đạt các mục tiêu đặt ra trong năm 2023, trong bối cảnh hiện nay, Vitas cùng với Hiệp hội da giày và Túi xách Việt Nam đã có văn bản kiến nghị Chính phủ và các bộ ngành về việc giảm, hoãn thuế cho doanh nghiệp, tiếp tục tìm các nguồn tài chính cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp để duy trì sản xuất, giữ ổn định lao động. Đồng thời, với một số lĩnh vực ngành hàng có xuất khẩu lớn như dệt may nên cân nhắc giữ lãi suất hợp lý để khuyến khích doanh nghiệp duy trì hoạt động, giữ ổn định lao động.
Để tham khảo các thông tin hữu ích khác về gia công phụ kiện may mặc, mời các bạn tham khảo thêm ở mục tin tức tại Xuantu.vn!